Viện Đào tạo Sau đại học - ĐH KTQD

Nghiên cứu sinh Trần Thị Ngọc Phương bảo vệ luận án tiến sĩ

Vào 15h ngày 30/9/2025 Phòng 501 nhà A2, Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức lễ bảo vệ luận án tiến sĩ cho NCS Trần Thị Ngọc Phương, chuyên ngành Kinh tế quốc tế, với đề tài: Tác động của chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Thứ năm, ngày 11/09/2025

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Đề tài luận án: Tác động của chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngành đào tạo: Kinh tế quốc tế                     Mã ngành: 9310106

Nghiên cứu sinh: Trần Thị Ngọc Phương

Người hướng dẫn: 1. GS.TS. Trần Thọ Đạt  2. PGS.TS. Lê Thanh Hà

Cơ sở đào tạo: Đại học Kinh tế Quốc dân

 

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

Luận án góp phần làm phong phú thêm các công trình nghiên cứu hiện có về chuyển đổi số, đồng thời cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Thứ nhất, luận án sử dụng dữ liệu cắt ngang về điều tra doanh nghiệp năm 2024 của Tổng cục thống kê. Kích thước mẫu nghiên cứu lớn, trên phạm vi lãnh thổ cả nước và bao quát nhiều ngành nghề nên có thể mang lại các phân tích đa chiều và khái quát về các SME tại Việt Nam. Đây là điểm nổi bật của luận án khi các nghiên cứu về chủ đề này tại Việt Nam có kích thước mẫu nhỏ, thậm chí có nghiên cứu lấy mẫu chỉ tập trung tại một khu vực địa lý cụ thể.

Thứ hai, căn cứ trên lý thuyết quan điểm dựa trên nguồn lực kết hợp với lý thuyết lợi ích - chi phí và kế thừa khung nghiên cứu của Ren & cộng sự (2023), luận án kiểm tra tác động trực tiếp và gián tiếp của chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của SME tại Việt Nam trong bối cảnh các kết quả thực nghiệm từ trong nước đến quốc tế đều đưa ra các kết luận khác nhau về chiều hướng tác động chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và SME nói riêng.

Thứ ba, luận án sử dụng kiểm định T-test kết hợp với kiểm định phi tham số Wilcoxon-Mann-Whitney để so sánh kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số và nhóm không thực hiện chuyển đổi số với mẫu là các SME nói chung và SME có hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là điểm mới của luận án khi chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam chỉ ra sự khác biệt này.

Thứ tư, luận án kiểm tra tác động trung gian của vòng quay tài sản và hệ số chi phí trong mối quan hệ giữa chuyển đổi số và kết quả họat động của SME theo cả hai phương pháp: hồi quy của Baron & Kenny (1986) và kỹ thuật bootstrap. Kết quả kiểm định sẽ góp phần làm rõ hơn cơ chế ảnh hưởng của chuyển đổi số khi hiện vẫn chưa có một mô hình lý thuyết chung thống nhất về cơ chế tác động của chuyển đổi số đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

Thứ nhất, kết quả của hoạt động của SME được cải thiện khi doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số. Chuyển đổi số có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của SME bất kể xét theo vùng kinh tế - xã hội, quy mô hay loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên mức độ tác động có sự khác biệt, đặc biệt mạnh đối với các doanh nghiệp tại Vùng Đông Nam Bộ, doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Thứ hai, nhóm SME áp dụng chuyển đổi số có kết quả hoạt động tốt hơn so với nhóm không áp dụng dù xét cho mẫu là các SME nói chung hay các SME có hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số đều đạt được hiệu quả cao.

Thứ ba, vòng quay tài sản và hệ số chi phí đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa chuyển đổi số và kết quả hoạt động của SME. Trong khi vòng quay tài sản giữ vai trò trung gian một phần thì hệ số chi phí giữ vai trò trung gian mạnh, gần đến trung gian hoàn toàn trong mối quan hệ này.

Thứ tư, một số hàm ý chính sách quan trọng được đề xuất: (i) Hoàn thiện và triển khai đồng bộ hệ thống các chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số một cách mạnh mẽ và bền vững; (ii) Hoàn thiện môi trường pháp lý trong và ngoài nước, đồng thời phát triển đồng bộ hạ tầng số để thu hẹp khoảng cách số giữa các khu vực; (iii) Tiếp tục khuyến khích hợp tác giữa các bên liên quan để thúc đẩy hệ sinh thái chuyển đổi số, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra các giải pháp chuyển đổi số phù hợp.

-----------------------------------------------------------------------------

NOVEL CONTRIBUTIONS OF THE DISSERTATION

Dissertation topic: The impact of digital transformation on the performance of small and medium-sized enterprises (SMEs) in Vietnam within the context of international integration

Specialization: International Economics                 Code: 9310106

PhD Candidate: Tran Thi Ngoc Phuong

Supervisor: 1. Prof. Dr. Tran Tho Dat  2. Assoc. Prof. Dr. Le Thanh Ha

Educational institution: National Economics University

New academic and theoretical contributions

This dissertation contributes to enriching the literature on digital transformation while providing empirical evidence on its impact on the performance of small and medium-sized enterprises (SMEs) in Vietnam within the context of international integration.

Firstly, the dissertation utilizes cross-sectional data from the 2024 Vietnamese Enterprise Survey conducted by the General Statistics Office. The large sample size, nationwide coverage, and inclusion of diverse industries enable multidimensional and generalizable analyses of Vietnamese SMEs. This represents a significant strength of the dissertation, as prior research on this topic in Vietnam often involves small sample sizes or samples restricted to specific geographic areas.

Secondly, based on the resource-based view theory combined with the cost-benefit theory and adopting the research framework by Ren et al. (2023), the dissertation examines both the direct and indirect impacts of digital transformation on the performance of SMEs in Vietnam, against the backdrop of divergent empirical findings - both domestic and international - regarding the direction of digital transformation’s influence on firm performance in general, and SMEs in particular.

Thirdly, the study employs T-test combined with the non-parametric Wilcoxon-Mann-Whitney test to compare the performance between SMEs that have implemented digital transformation and those that have not. The sample includes both general SMEs and SMEs engaged in import-export activities. This represents a novel contribution of the dissertation, as no prior research in Vietnam has identified this distinction.

Fourthly, the dissertation investigates the mediating effects of asset turnover rate and operating cost rate on the relationship between digital transformation and SME performance, utilizing both the regression approach of Baron & Kenny (1986) and bootstrap techniques. The testing results aim to provide clearer insights into the mechanisms through which digital transformation influences firm performance, addressing the current gap in the literature where a unified theoretical model explaining these mechanisms remains absent.

New findings and proposals based on the research results

First, the performance of SMEs improves when enterprises undertake digital transformation. Digital transformation positively influences SME performance regardless of economic–social regions, enterprise size, or business type; however, the magnitude of the impact varies, being particularly strong for enterprises in the Southeastern Region, larger-scale enterprises, and foreign direct investment enterprises.

Second, SMEs that implement digital transformation exhibit better performance compared to those that do not, whether considering the general SME sample or the subset engaged in import-export activities. Nevertheless, not all enterprises undertaking digital transformation achieve high effectiveness.

Third, asset turnover rate and operating cost rate serve as mediating variables in the relationship between digital transformation and SME performance. While the asset turnover rate plays a partial mediating role, the operating cost rate acts as a strong mediator, approaching a full mediation effect in this relationship.

Fourth, several policy implications are proposed: (i) improving and synchronously implementing a comprehensive system of policies to robustly and sustainably support enterprises in the process of digital transformation; (ii) enhancing both domestic and international legal frameworks while developing digital infrastructure synchronously to reduce the digital gap across regions; and (iii) continuing to encourage collaboration among stakeholders to promote the digital transformation ecosystem, thereby aiding enterprises in identifying suitable digital transformation solutions.